Các công ty di truyền giống lớn trên thế giới đã đạt được tiến bộ đáng kể trong những thập kỷ qua liên quan đến việc tăng tổng số con sinh ra và số lượng heo con sơ sinh sống/nái. Những tiến bộ về di truyền được công nhận mang lại lợi ích cho người chăn nuôi về mặt hiệu quả và chi phí sản xuất tổng thể, nhưng chúng ta cũng thừa nhận rằng những cải thiện về khả năng sinh sản cũng gặp phải nhiều thách thức
Một trong những thách thức lớn của việc nuôi heo nái cao sản là kích thước ổ đẻ lớn và tỷ lệ chết trước cai sữa tăng lên (Baxter và Edwards, 2018). Trọng lượng heo con sơ sinh thấp, chênh lệch trọng lượng sơ sinh trong lứa lớn hơn (Hình 2), sức sống của heo con thấp và heo con kém khỏe mạnh hơn do chen chúc trong tử cung, thời gian đẻ kéo dài và tăng sự cạnh tranh ở bầu vú (đối với cả sữa non và sữa) là những yếu tố chính liên quan đến tỷ lệ chết trước cai sữa cao hơn (Milligan và cs, 2002; Wolf và cs, 2008; Hales và cs, 2013; Muns, 2013; Rootwelt và cs, 2013;
Các công ty di truyền Với trọng lượng sơ sinh thấp hơn và sự chênh lệch trọng lượng heo con trong các lứa đẻ có kích thước lớn đã tăng lên, không ngạc nhiên khi trọng lượng cai sữa của từng heo con và mức độ chênh lệch trọng lượng lúc cai sữa cũng bị ảnh hưởng bất lợi trong các trang trại nuôi heo nái cao sản.
Các phương pháp để cải thiện năng suất heo con sơ sinh
Cung cấp sữa đầu
Sữa đầu đã được chứng minh là quan trọng đối với cả trọng lượng heo con sơ sinh (Hình 4) và trọng lượng cai sữa của heo con (Hình 5) đều có tác động đáng kể đến năng suất suốt vòng đời (Mahan và Lepine, 1991; Cooper và cs, 2001; Beaulieu và cs, 2010; Magowan và cs, 2010; Collins và cs, 2017; Molist, 2023). Vì vậy, đối với các nhà chăn nuôi và đặc biệt là những trang trại sử dụng các giống heo cao sản, điều quan trọng là tất cả các bước kỹ thuật cần được thực hiện để tối đa trọng lượng heo con sơ sinh và trọng lượng heo con cai sữa. Mặc dù rất dễ tác động tiêu cực đến trọng lượng sơ sinh của heo con bằng cách cho ăn không đúng cách, dinh dưỡng thấp trong giai đoạn sau của thai kỳ, nhưng nhìn chung việc cải thiện trọng lượng sơ sinh của heo con, thông qua dinh dưỡng, thường không có lợi về mặt chi phí (Gonçalves và cs, 2015; Greiner và cs, 2016; Mallmann và cs, 2018).
Vì hạn chế về mặt chi phí, để nâng cao trọng lượng heo con sơ sinh thông qua các biện pháp can thiệp dinh dưỡng, do đó các nhà sản xuất phải tập trung vào các lĩnh vực mà họ có thể tác động tích cực, cải thiện trọng lượng cai sữa của từng heo con và toàn ổ càng nhiều càng tốt. Giúp heo con tiếp cận và uống được sữa đầu là bước quan trọng đầu tiên mà người chăn nuôi phải thực hiện. Có mối tương quan rõ ràng liên quan đến lượng sữa đầu uống được và tỷ lệ chết trước cai sữa, tăng trưởng trước cai sữa và năng suất sau cai sữa.
Giám sát quá trình đẻ, sấy khô ủ ấm cho heo con sau khi sinh và thực hiện chia cữ bú trong giai đoạn sữa đầu, là những công cụ quản lý cực kỳ quan trọng nên được thực hành để đảm bảo lượng sữa đầu tiết ra và lượng sữa đầu heo con thu nhận ở mức cao nhất có thể. Ngoài việc cung cấp các chất dinh dưỡng cần thiết và bảo vệ chống lại bệnh tật cho heo con mới sinh, các nhà nghiên cứu từ Đại học Aarhus (Vadmand và cs, 2015) đã công bố rằng, sản lượng sữa đầu cũng ảnh hưởng đến sản lượng sữa trong suốt thời kỳ cho bú. Với những dữ liệu thuyết phục như vậy, rõ ràng việc cung cấp sữa đầu luôn quan trọng. Đối với heo con sinh ra từ heo nái cao sản, việc tối đa sản xuất và hấp thụ sữa đầu ngày càng trở nên quan trọng.
Cải thiện quản lý/Thức ăn nái nuôi con
Để mức độ cung cấp và hấp thụ sữa đầu cao và nhiều nhất có thể, nhân viên trại phải tập trung vào việc giảm stress đối với heo con đang bú (môi trường, các thách thức về sức khỏe) thông qua quản lý heo con và heo nái đúng cách. Tất cả các khía cạnh về dinh dưỡng của heo nái phải chính xác để tối đa hóa sản lượng sữa tiết ra, việc cho ăn trong thời kỳ mang thai (thể trạng của heo nái/sự thèm ăn của heo nái) có tác động đến quá trình tiết sữa, đồng thời cùng với việc cung cấp chất dinh dưỡng trong thời gian nuôi con.
Mặc dù việc cung cấp thức ăn nuôi con chất lượng cao và trình độ chăn nuôi cao phải được coi là cần thiết khi chăn nuôi heo nái cao sản, ngay cả với dinh dưỡng và sự quản lý heo nái tốt nhất thì heo nái cũng không có khả năng cung cấp chất dinh dưỡng mà heo con có thể phát triển đến tiềm năng di truyền của chúng (Hodge, 1974), dẫn đến sự thiếu hụt chất dinh dưỡng và gây mất mát lớn nhất về năng suất so với tiềm năng di truyền ở bất kỳ giai đoạn nào trong chu kỳ sản xuất (Mavromichalis, 2006).
Thức ăn bổ sung cho heo con theo mẹ
“Khoảng trống dinh dưỡng” giữa nhu cầu của heo con và khả năng heo nái có thể cung cấp đã được chứng minh bởi 2 nhóm nghiên cứu khác nhau của Hoa Kỳ. Nghiên cứu đầu tiên tại Đại học Cornell (Harrell và cs, 1993) cho thấy, heo con được nuôi tiếp cận tùy thích với các sản phẩm sữa thay thế có thể tăng trưởng với tốc độ trên 400g/ngày, trong khi nghiên cứu thứ hai tại Bang North Carolina (Cabrera và cs, 2010) báo cáo rằng, trọng lượng cai sữa của heo con uống sữa thay thế cao hơn tới 35% so với nhóm heo con chỉ được bú từ mẹ của chúng (Bảng 1). Trong cả 2 thử nghiệm được báo cáo, số lượng heo con trên ổ đều thấp hơn đáng kể so với thực tế với các kiểu gen hiện đại hơn đã được cải tiến.
Bảng 1: So sánh năng suất của heo con nuôi bởi heo nái và heo con nuôi bằng sữa thay thế từ 2 và 14 ngày tuổi
Nuôi bằng heo nái toàn thời gian | Nuôi bằng heo nái đến 14 ngày tuổi (sau đó cho uống sữa thay thế theo nhu cầu) | Nuôi bằng heo nái đến 2 ngày tuổi (sau đó cho uống sữa thay thế theo nhu cầu) | |
Trọng lượng heo con sơ sinh (kg) | 1.60 | 1.58 | 1.67 |
Trọng lượng heo con cai sữa (kg) | 6.49c | 7.50b | 8.75a |
Tuổi cai sữa (ngày) | 19.5b | 20.4a | 21.0a |
ADG sau cai sữa (g) | 569ab | 582a | 547b |
Trọng lượng kết thúc giai đoạn cai sữa (kg) | 33.5b | 35.8a | 36.1a |
Tuổi kết thúc giai đoạn thí nghiệm (ngày) | 70.4a | 68.8b | 68.1b |
Hầu hết các trang trại đều cung cấp thức ăn tập ăn cho heo con trong giai đoạn theo mẹ, mặc dù phương pháp này có thể mang lại những tác động có lợi đối với năng suất sau cai sữa, tác động tích cực đến cấu trúc và sức khỏe đường tiêu hóa. Chúng ta thấy rằng, việc cung cấp thức ăn dạng rắn trước cai sữa do lượng thức ăn heo con ăn được thường tương đối thấp sẽ có tác động hạn chế trong việc giảm “khoảng trống dinh dưỡng”.
Mặc dù, tổng sản lượng sữa có mối tương quan thuận với số lượng heo con bú, nhưng với kích thước ổ đẻ lớn hơn, lượng sữa bú được của từng heo con sẽ giảm (Ngo và cs, 2012) (Hình 7). Tổng lượng sữa heo nái sản xuất trên mỗi lứa tăng để đáp ứng với việc heo con bú nhiều hơn, với kích thước lứa lớn hơn, điều này dẫn đến việc cung cấp sữa cho từng heo con ngày càng giảm nhiều hơn và “khoảng trống dinh dưỡng” cũng sẽ lớn hơn (có hại hơn). Việc tiêu thụ thức ăn tập ăn trước khi cai sữa tuy hữu ích nhưng sẽ không làm giảm đáng kể sự thiếu hụt chất dinh dưỡng, các nhà chăn nuôi ngày càng chuyển sang cung cấp sữa thay thế để bổ sung, đồng thời với việc cung cấp thức ăn tập ăn để cải thiện trọng lượng cai sữa, để giảm số lượng heo có trọng lượng rất thấp (sẽ có vấn đề ở giai đoạn sau cai sữa) và để giảm sự chênh lệch trọng lượng cai sữa trong bầy.
Ảnh hưởng của kích thước lứa đẻ đến tổng sản lượng sữa và lượng sữa uống được trên mỗi heo con theo mẹ
Với năng suất sản xuất cao của heo nái ở hầu hết các nước châu Âu, việc cung cấp sữa bổ sung trong thời kỳ nái nuôi con được cung cấp thủ công pha tay hoặc thông qua hệ thống tự động (ngày càng phổ biến hơn), đã được áp dụng tại trang trại và được thử nghiệm/báo cáo là tích cực bởi một số nhóm nghiên cứu heo hàng đầu – van Oostrum và cs, 2016 (Nghiên cứu thức ăn Schothorst); Arnaud và cs, 2023 (Phòng Phát triển heo Teagasc); Amdi và cs, 2020 (SEGES, Trung tâm nghiên cứu heo Đan Mạch).
Những phản hồi được báo cáo về việc cung cấp sữa bổ sung trong giai đoạn theo mẹ:
- Giảm tỷ lệ chết trước cai sữa (Wolter và cs, 2002; Stewart và cs, 2010; Park và cs, 2014; Novotni-Dankó và cs, 2015; Kobek-Kjeldager và cs, 2020; Correa và cs, 2023).
- Cải thiện sự tăng trưởng của heo con cả trước và sau cai sữa (Wolter và cs, 2002; Novotni-Dankó và cs, 2015; de Greeff và cs 2016; Van Oostrum và cs, 2016; Kobek-Kjeldager và cs, 2020; Chem và cs, 2023) và giảm sự chênh lệch trọng lượng cai sữa giữa các con trong cùng bầy (Novotni-Dankó và cs, 2015; Zsolt và cs, 2015). Những nhận xét tích cực liên quan đến việc cải thiện sức khỏe dạ dày/ruột (de Greeff và cs, 2016; Shi và cs, 2018; Jin và cs, 2020; Correa và cs, 2023).
Điều ít được báo cáo trong các tài liệu khoa học đã xuất bản nhưng thường được đánh giá bởi các nhà sản xuất thường xuyên sử dụng sữa bổ sung, là năng suất heo nái cũng được cải thiện (tức là có ít ngày không sản xuất; số lượng heo con cai sữa/nái/năm tăng lên do nhu cầu về ghép heo và dùng nái nuôi hộ ít hơn).
Mặc dù, chưa được áp dụng rộng rãi như ở châu Âu nhưng việc sử dụng sữa bổ sung trong giai đoạn cho con bú cũng đang trở nên phổ biến hơn ở Đông Nam Á. Với nhiệt độ môi trường cao hơn các khu vực khác trên thế giới, lượng ăn vào của heo nái có thể thấp hơn do stress nhiệt (Hình 8) và về mặt logic, điều này có nghĩa là heo con thậm chí còn thiếu hụt chất dinh dưỡng lớn hơn so với ở những vùng có khí hậu lạnh. Trong tình huống này, những lợi ích thực sự của việc cung cấp sữa bổ sung cho heo con theo mẹ là rất rõ rệt.
Ảnh hưởng của nhiệt độ đến năng lượng ăn vào và sản lượng sữa của heo nái giai đoạn cho con bú
Mặc dù có một số dữ liệu được công bố chỉ ra rằng việc cung cấp sữa bổ sung tự động mang lại hiệu quả tốt hơn so với khi cung cấp sữa theo cách thủ công (Correa và cs, 2023), nhưng vẫn cần nhiều nghiên cứu hơn trước khi có thể đưa ra kết luận chắc chắn. Về mặt logic, vì sữa bổ sung được cung cấp qua hệ thống tự động, thường sẽ có sẵn cho heo con trong thời gian dài hơn (và cũng được giữ tươi hơn), chúng tôi đã thấy kết quả được cải thiện tại trang trại so với cung cấp bằng cách pha tay thủ công.
Một hệ thống phân phối sữa tự động được vận hành tốt sẽ giảm đáng kể số giờ làm việc để nhân viên chuẩn bị nguồn thực phẩm bổ sung quan trọng này và với nhiều công việc khác tại trang trại, đặc biệt là ở các đơn vị trang trại quy mô lớn hơn, quy trình càng đơn giản (tự động hóa), thì càng có nhiều khả năng công việc được hoàn thành.